Những vướng mắc trong việc xem xét và thẩm định tại chỗ khi giải quyết các vụ án dân sự (phần 2)

0
518
Đánh giá

Xem xét, thẩm định tại chỗ là biện pháp trong quá trình tố tụng nhằm thu thập tài liệu chứng cứ của Tòa án, chứng minh cho quyền khởi kiện của nguyên đơn. Đây là một biện pháp thu thập chứng cứ quan trọng, là căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự một cách chính xác, đúng pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên đương sự.Đây là một biện pháp thu thập chứng cứ quan trọng, là căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự một cách chính xác, đúng pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên đương sự.

Để có đáp án nhanh nhất trong lĩnh vực pháp luật hành chính, gọi Tổng đài tư vấn pháp luật (24/7): 1900 6198

Về vấn đề đương sự không hợp tác, cản trở việc xem xét và thẩm định tại chỗ.

Hiện nay, việc xem xét, thẩm định tại chỗ chủ yếu được thực hiện đối với các vụ án sơ thẩm và chủ yếu là đo vẽ nhà đất tranh chấp, một số ít là xem xét thực địa để giải quyết vụ án cho đúng. Trên thực tế, đã có không ít trường hợp đương sự đang trực tiếp quản lý tài sản là nhà đất tranh chấp không hợp tác với Tòa án, gây khó khăn, cản trở hoặc không cho đo vẽ nhà đất bằng việc đóng cổng, đóng cửa, bỏ đi khỏi nhà đất tranh chấp mỗi khi Tòa án đến xem xét, thẩm định tại chỗ dẫn tới việc Tòa án không thể giải quyết được vụ án, không ít vụ án phải tạm đình chỉ không thời hạn. Các khoản 6 7 Điều 9 Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (hướng dẫn Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP) thi hành một số quy định về “Chứng minh và chứng cứ” của Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011 hướng dẫn thực hiện Điều 89 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 như sau:

6. Nếu có người nào cản trở Toà án tiến hành việc xem xét, thẩm định tại chỗ, thì Thẩm phán yêu cầu đại diện của Uỷ ban nhân dân hoặc cơ quan, tổ chức có biện pháp can thiệp, hỗ trợ kịp thời để thực hiện việc xem xét, thẩm định tại chỗ. Trong trường hợp cần thiết, Thẩm phán yêu cầu lực lượng Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp thuộc Công an nhân dân có thẩm quyền để có các biện pháp can thiệp, hỗ trợ, theo quy định tại Thông tư số 15/2003/TT-BCA(V19) ngày 10-9-2003 của Bộ Công an hướng dẫn hoạt động hỗ trợ tư pháp của lực lượng Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp thuộc Công an nhân dân.

7. Trường hợp đã thực hiện đầy đủ các biện pháp được hướng dẫn tại khoản 6 Điều này mà vẫn không tiến hành được, thì Thẩm phán lập biên bản về việc đương sự cản trở việc xem xét, thẩm định tại chỗ để lưu vào hồ sơ vụ án. Biên bản về việc đương sự cản trở việc xem xét, thẩm định tại chỗ, đồng thời, phải được gửi cho cơ quan có thẩm quyền xem xét, xử lý theo pháp luật về hành vi chống người thi hành công vụ của đương sự.”

So với Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP  của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về chứng minh và chứng cứ” thì Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP đã bổ sung thêm khoản 7 ở trên khi hướng dẫn Điều 89 Bộ luật tố tụng dân sự. Quy định này của Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP được áp dụng khi đương sự hoặc những người khác có hành động chống đối, gây rối khi Tòa án xem xét, thẩm định tại chỗ; nhưng với trường hợp đương sự đóng cửa, bỏ đi, Tòa án không thể vào xem xét, đo vẽ nhà đất thì có được coi là hành vi “cản trở” được nêu tại khoản 6 Điều 9 Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP và có được áp dụng các biện pháp nêu tại khoản 7 hay không thì vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau. Theo ý kiến của tác giả vì lực lượng Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp thuộc lực lượng Công an nhân dân không thể can thiệp, hỗ trợ Tòa án trong trường hợp đương sự khóa cửa, khóa cổng nhà đất bỏ đi; cơ quan có thẩm quyền cũng không thể xem xét, xử lý theo pháp luật về hành vi chống người thi hành công vụ của đương sự vì không có việc chống người thi hành công vụ nên không thể áp dụng khoản 7 Điều 9 Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP trong trường hợp đương sự khóa cửa, khóa cổng, bỏ đi khỏi nhà đất là đối tượng cơ quan Tòa án cần xem xét, thẩm định tại chỗ.

Trên thực tế, các Thẩm phán ở địa phương đã phải vận dụng nhiều cách khác nhau từ việc phối hợp với chính quyền địa phương, Mặt trận tổ quốc, tổ chức Đảng… để giải thích, thuyết phục đương sự hợp tác, để Tòa án tiến hành đo vẽ, định giá nhà đất, tài sản tranh chấp. Trong trường hợp không thể xem xét, thẩm dịnh tại chỗ được, Tòa án phải thu thập các chứng cứ khác như sử dụng những bản vẽ nhà đất cũ hoặc những số liệu về diện tích nhà đất có tại những tài liệu khác như sổ mục kê, sổ kê khai đăng ký ruộng đất…(nếu có) để giải quyết vụ án. Nếu việc này không đem lại kết quả thì Tòa án buộc phải tạm dừng việc xem xét và thẩm định tại chỗ.

Về việc áp dụng khoản 12 Điều 102 Bộ luật tố tụng dân sự để ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cấm đương sự thực hiện hành vi cản trở việc đo vẽ, định giá tài sản như các Tòa án nhân dân cấp quận, huyện tại thành phố Hồ Chí Minh thực hiện, tác giả có một số ý kiến như sau:

Theo điều 99 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 1 Nghị quyết 02/2005/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định tại Chương VIII “Các biện pháp khẩn cấp tạm thời” của Bộ luật tố tụng dân sự thì biện pháp khẩn cấp tạm thời chỉ được áp dụng trong những trường hợp sau đây:

“a. Để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự có liên quan trực tiếp đến vụ án đang được Toà án giải quyết và cần phải được giải quyết ngay, nếu không được giải quyết sẽ ảnh hưởng xấu đến đời sống, sức khoẻ, tính mạng, danh dự, nhân phẩm… của đương sự;

b. Để bảo vệ chứng cứ trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu huỷ, có nguy cơ bị tiêu huỷ hoặc sau này khó có thể thu thập được;

c. Để bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được, tức là bảo toàn mối quan hệ, đối tượng hiện có liên quan đến vụ án đang được Toà án giải quyết;

d. Để bảo đảm việc thi hành án tức là làm cho chắc chắn các điều kiện để khi bản án, quyết định của Toà án được thi hành thì có đầy đủ điều kiện để thi hành án.”

Như vậy, “để bảo vệ chứng cứ” đã được quy định là một trong những căn cứ để áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, nhưng “để thu thập chứng cứ” thì không được quy định là một trong những căn cứ để áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, trong khi áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ chứng cứ hay để thu thập chứng cứ có cùng chung đối tượng đó là chứng cứ và chung mục đích cuối cùng là có được chứng cứ làm căn cứ cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự; bảo vệ và thu thập chứng cứ đều cần thiết như nhau, có thể là tiền đề và hệ quả của nhau và đều không trái nguyên tắc chung của Bộ luật tố tụng dân sự. Do pháp luật không quy định cụ thể nên việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để thu thập chứng cứ cần thiết phải có hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao để tạo điều kiện cho các Tòa án nhân dân địa phương trong việc giải quyết các vụ việc cần phải xem xét và thẩm định tại chỗ.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 16/2006/DS-GĐT về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất” của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao được đăng trong tập Quyết định giám đốc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao năm 2006, từ trang 261 đến trang 269, liên quan đến việc đương sự cản trở các cấp Tòa án không cho đo vẽ nhà đất tranh chấp, trong phần xét thấy có nhận định như sau: “Lẽ ra, trong trường hợp phía bị đơn không hợp tác, gây khó khăn cản trở cho các cấp Tòa án trong việc xác minh, đo vẽ cụ thể các diện tích nhà, đất, công trình kiến trúc, thì Tòa án cần áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, trong đó có biện pháp cấm hoặc buộc đương sự thực hiện một số hành vi nhất định” để Tòa án thực hiện được việc xác minh, đo vẽ theo số đo cụ thể các diện tích nhà, đất, công trình kiến trúc…”. Bản án sơ thẩm và phúc thẩm đã bị Quyết định giám đốc thẩm nêu trên hủy để giải quyết lại với lý do là không đo vẽ cụ thể diện tích nhà đất tranh chấp. Đây có thể coi là “án lệ”, là hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao không chỉ đối với vụ án này mà có thể áp dụng với các trường hợp tương tự khi giải quyết các vụ án khác.

Xem thêm:

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest

  1. Bài viết trong lĩnh vực nêu trên được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900 6198, E-mail: info@everest.org.vn.

TRẢ LỜI

Vui lòng nhập bình luận của bạn!
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây